SỰ PHÂN CHIA CÁC THỜI
KÌ LỚN CỦA LỊCH SỬ HÓA HỌC
Sự
phân chia các thời kì lớn của Lịch sử Hóa học
không thật giống nhau giữa các sách, thậm chí có những
sách cuối những năm 70 đầu những năm 80
còn né tránh các vấn đề này! Chúng tôi thấy cần
thiết có sự phân chia này, và đã tìm ra một sự phân chia
tương đối hợp lí như sau:
Tuy
ngày nay đã có định nghĩa rõ ràng: Hóa học là môn khoa
học nghiên cứu các chất và sự biến hóa của chúng,
nhưng hóa học chỉ được coi là một môn khoa học chính thức từ
khi có mục đích yêu cầu xác định và có đối tượng
riêng. Tính chất độc lập của hóa học chỉ
mới thể hiện vào giữa thế kỷ 17 mà thôi.
Tuy vậy không thể cho rằng Lịch sử Hóa học
bắt đầu từ thời điểm này. Từ hang
thiên niên kỷ trước công nguyên đã có nhiều “nôi” văn minh trên thế giới.
Nhiều di vật cổ tìm thấy chứng minh rằng từ
thời thượng cổ 7000 – 8000 năm trước công nguyên con
người đã có những “hiểu biết hóa học”
nhất định. Chẳng hạn như về đồ
trang sức bằng vàng, bạc, gốm, thủy tinh thô
sơ, sơn màu và thuốc nhuộm, tên và lưỡi giáo bằng đồng hoặc sắt…, về
chất này chất khác và cách chế biến sử dụng.
Khảo cổ học Việt Nam cũng đã phát hiện được nhiều
di vật cổ tương tự như trang sức bằng vàng,
bạc, đồ gốm (gạch, ngói, chum, vại…), mũi tên, lưỡi giáo
bằng đồng, sắt. Có trống đồng Ngọc
Lũ của văn hóa Đông Sơn, thời Hùng
Vương, đúc đẹp, tinh vi được thế
giới đánh giá cao.
Sự nghiên cứu kĩ cho thấy rằng suốt từ
thế kỉ thứ 4 sau công nguyên đến đầu thế
kỉ 16 đã có một trào lưu lớn tìm tòi nghiên cứu gọi là giả kim thuật, được xem như là
thời
kì “Tiền hóa học”. Hoạt động của thời
kì này tuy còn thần bí, duy ý chí nhưng rõ ràng đã
xây dựng được một số quy trình thực hành thủ
công. Giai đoạn từ đầu thế kỉ 16 đến
giữa thế kỉ 17 là thời kì chuyển tiếp với
sự xuất hiện của hóa y học và hóa kỹ thuật.
Rồi hóa học độc lập ra đời chập
chững trưởng thành và đến cuối thế kỉ 18 mới
có bộ mặt hóa học hiện đại…
Tổng hợp lại, chúng ta chia được lịch sử
hóa học làm 5 thời kì lớn như sau:
1. Thời kì cổ
đại: từ thượng cổ đến hết thế kỉ thứ
3 sau công nguyên.
2. Thời kì giả kim thuật: từ thế kỉ thứ
4 đến đầu thế kỉ 16.
3. Thời kì hóa y học và hóa kỹ thuật: từ đầu
thế kỉ 16 đến thế kỉ 17.
4. Thời kì hóa học độc lập trở thành một
khoa học: từ giữa thế kỉ 17 đến cuối
thế kỉ 18.
5. Thời kì hóa học hiện đại: từ đầu
thế kỉ 19 đến ngày nay
CHƯƠNG
II: THỜI KÌ CỔ ĐẠI
Một số
sách Lịch sử Hóa học ngay ở những trang đầu
đặt câu hỏi: Danh từ “Chimi” (hóa học) xuất
hiện lúc nào? Có định nghĩa ban đầu như thế nào?
Các lời giả đáp khác nhau được đưa
ra, nhưng tất cả đều không dựa trên những cơ sở rõ ràng.
Có lẽ đáng chú ý nhất là câu chuyện kể lại của
nhà giả kim thuật có tên tuổi Zôsime (Zosime). Zôsime
được coi là nhà giả kim thuật đầu tiên,
sống khoảng nửa sau thế kỉ thứ 3. Ông
đã kể lại rằng vào thế kỉ thứ 3 trước công
nguyên, tại Memphit (Memphis) thủ đô Ai Cập cổ
đại trong đền thờ thần Ai Cập Phơta
(Phta) có một khu đặc biệt dành cho hoạt động
của một nghệ thuật thiêng liên do các thiên thần
truyền lại cho con người. Như vậy, có thể nói
rằng lúc ban đầu hóa học được coi
là một nghệ thuật thiêng liên do các thiên thần truyền
lại cho các giáo sĩ Ai Cập cổ đại.
1.
Những di vật và hiểu biết hóa học thời kì cổ
đại
Các giáo sĩ tôn giáo bí mật nghiên cứu điều
chế nhân tạo ngọc quý, kim loại quý, vàng, bạc,
thuốc nhuộm đẹp, thuốc thánh chữa bệnh, ướp xác người… dùng
những kí hiệu tượng trưng, khinh thường sự quan
sát thiên nhiên và sự tổ chức làm thí nghiệm. Sau khi
Ai Cập bị Hi Lạp xâm chiếm (năm 323 trước công
nguyên) một phần “nghệ thuật thiêng liêng” bị lọt
ra ngoài từ các đền thờ Phơta, Ozirit (Oziris),
Jziđô (Jzido)… và được phổ biến rộng ra dần…
Trong thành phố thì
có sự hoạt động hằng ngày thiết thực
phong phú, của một đội ngũ đông đảo
thợ các nghề thủ công. Họ lao động cần
cù đi đến sáng tạo ra nhiều sản phẩm gồm
đồ mỹ nghệ bằng ngọc quý, vàng, bạc,
đồ gốm, đồ thủy tinh, vải vóc, thuốc
nhuộm… Đội ngũ thợ này tập hợp dần
dần một vốn kiến thức về kỹ thuật
hóa học thủ công phong phú và có giá trị. Chính họ
đã để lại cho ngày nay những di vật quý giá
như:
đền đài, lăng mộ, kho báu, dụng cụ lao
động, sinh hoạt…
Ngoài ra còn có những tư liệu ghi chép trên những tấm đá, tấm
đất sét nung, thanh tre non, giấy lao sậy (papirút Ai Cập).
Một papirút có tiếng nhất là papirút Ebe (Eber), còn lưu trữ ở thư viện Trường
Đại học Lepzic (Leipzig) viết khoảng 1600 năm
trước công nguyên, phần chính nói về y học, về
thuốc chữa bệnh. Còn có thể kể thêm tác phẩm
của một số tác giả thi sĩ, sư gia, (truyện “Iliat và
Ođixê” của Hôme (Homere) về chiến tranh thành
Tơroa (Troie) khoảng 1200 năm trước công nguyên), triết
gia (bộ “Bách khoa toàn thư” của Pơlin
(Pline) viết khoảng thế kỉ 1 trước công
nguyên),…
Các di vật ở trên được tìm thấy ở những nơi đã có một
trình độ văn minh nào đó ở thời cổ
đại, tại khu vực rộng lớn Á – Âu – Bắc
Phi, đã xuất hiện dần dần trước sau
nhau một ít các nền văn minh: Trung Quốc (sớm nhất),
Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hi Lạp, La Mã (muộn nhất).
Từ thời xa xưa người Trung Hoa đã biết sản
xuất gồ gốm, một số kim loại, đúc
chuông, tượng, chế thuốc nhuộm (inđigô,…), thuốc
chữa bệnh, sản xuất đường, nấu rượu từ
các hạt,… Ấn Độ cũng có những di vật tương
tự
mới được phát hiện gần đây, có những đồ
gốm, đồ đồng niên đại khoảng 3000 năm
trước công nguyên.Khu vực Lưỡng Hà
có những tấm đất sét khắc chữ hình nêm từ 3000 năm
trước công nguyên ghi lại cách sản xuất các
kim lại, sắt, đồng, bạc, chì từ quặng,
có những tượng múa tôn giáo, từ 4000 năm trước công
nguyên! Ở Việt Nam, nước Văn Lang, thời các vua Hùng, cũng biết
sản xuất đồ gốm, nấu đồng, luyện
sắt, đúc chuông, tượng, trống
đồng, vũ khí…
Nền văn minh Ai Cập cổ đại được
nghiên cứu và hiểu biết nhiều nhất. Trước khi bị
Đế quốc Hi Lạp xâm chiếm, Ai Cập độc
lập có các triều đại được xây dựng
nên từ 7000 năm trước công nguyên, là nước có kỹ
thuật tiên tiến của thế giới ngày xưa, các nghề thủ
công đạt tới trình độ cao do trong chế độ
chiếm hữu nô lệ của Ai Cập, có sự phân công
lao động giữa các thợ thủ công và sự chuyên
môn hóa sản xuất. Ai Cập cổ đại biết
nung gạch từ 6000 năm trước công nguyên, biết tinh chế
vàng bạc, sản xuất đồ gốm, chế thuốc
nhuộm (thuốc nhuộm thực vật inđigô, nghệ,
quỳ,… thuốc nhuộm vô cơ như hồng hoàng, minium,…)http://waphay.xtgem.com. chế rượu bia, rượu nho,
dấm, các loại thuốc chữa bệnh (thuốc viên,
thuốc xoa, thuốc bó,…) có kỹ thuật ướp xác người chu
đáo từ 3000 năm trước công nguyên…, trong kim tự tháp Khuphu
(Khufu) 2900 năm trước công nguyên đã tìm thấy dao trổ bằng thép
được chôn theo.
Từ xa xưa, con người trong quá trình
tìm hiểu thế giới đã nhận thấy cần phải
có một lý thuyết nào đó hướng dẫn mình tiến tới…
2. Những
lý thuyết của các Triết gia cổ Hi Lạp – La Mã
Trong
thời Cổ Đại, dân tộc Hi Lạp nổi bật
lên ở khả năng tổng quát hóa. Họ có nhiều
nhà triết học mạnh dạn xây dựng nên những
lý thuyết tổng quát để giải thích các hiện tượng muôn
hình muôn vẻ không ngừng diễn ra xung quanh mình. Đáng
chú ý nhất có thuyết các chất đầu hay nguyên tố
của mọi vật, có thuyết nguyên tử về cấu
tạo gián đoạn của vật chất. Thuyết các
nguyên tố được hình thành như sau:
Nhà
triết học Talet (Thales) ở thành phố Milê (Milet) sống
ở thế kỉ thứ 7 sang thế kỉ thứ 6 trước công nguyên,
đã suy nghĩ và kết luận rằng nước là
nguyên lí, là chất đầu, là nguyên tố của tất
cả: “Không có gì có thể xuất phát từ không có gì, tất
cả xuất phát từ nước và rồi trở lại về nước”. Đung nóng
nước thấy nước biến thành không khí (hơi nước), cho bay
hơi nước (nước biển) thu được đất (muối).
Anaximen (Anaximène) sống khoảng giữa thế kỉ thứ 6 trước công
nguyên cho không khí là chất đầu. Xênôphan (Xenophane) cùng thế
kỉ cho đất và nước là chất đầu. Hêraclit (Heraclite)
(540 – 480 trước công nguyên) coi lửa là chất đầu.
Empêđôc (Empédocle) (490 – 430 trước công nguyên) tổng
hợp thành thuyết các nguyên tố: nước,
không khí, đất, lửa là 4 chất đầu, là 4
nguyên tố tạo nên mọi vật. Mọi vật thể
đều được tạo nên từ chúng theo những tỉ lệ khác nhau.
Chúng ta lưu ý rằng, nguyên tố ở đây nghĩa là thứ
đầu tiên, không kể là vật chất hay phi vật
chất.
Gần như đồng thời với thuyết các nguyên tố,
ra đời thuyết nguyên tử. Một vấn đề
to lớn là xét xem vật chất có cấu tạo như thế nào,
có thể chi nhỏ mãi vô cùng không giới hạn, hay có giới
hạn?
Lơxip (Leucipe) ở thế kỉ thứ 5 trước công
nguyên là tác giả của thuyết nguyên tử. Ông ch rằng
vật chất có thể chia nhỏ dần đi đến
những phần tử không thể chia nhỏ hơn
được nữa, gọi chúng là các nguyên tử. Có các
nguyên tử của nước, không khí, đất, lửa.
Đêmôcrit (Democrite (460- 390 trước công nguyên), học
trò của Lơxip hoàn thiện lý thuyết của thầy, được coi
là ông tổ thật sự của thuyết nguyên tử. Đêmôcrit xuất
phát từ nguyên lý: “không có gì thì không thể cho cái gì cả”,
và lý luận như sau để đi đến thừa nhận
sự tồn tại các nguyên tử: “Nếu bất kì một
vật nào có thể chia nhỏ mãi không cùng thì có 2 điều,
hoặc không có gì cả hoặc còn lại cái gì đó. Trong trường hợp
thứ nhất, vật chất chỉ có một sự tồn
tại ảo tưởng mà thôi; trong trường hợp thứ hai, người ta
đặt câu hỏi: còn lại gì vậy? Câu trả lời
logic nhất là có sự tồn tại các nguyên tố thật
sự, không chia được, không chỉ được gọi
là các nguyên tử”. Ông quan niệm các nguyên tử của các
nguyên tố có kích thước và hình dạng nhất định, giải thích
được sự khác nhau về tính chất của các
nguyên tố. Những chất thực tế ta thấy là những
liên kết của các nguyên tử đó, nếu có sự
thay đổi liên kết thì có thể làm chất này biến
thành chất khác.
Lơxip và Đêmôcrit là 2 nhà duy vật hoàn toàn, không
chấp nhận có sự tham gia một vị thần thánh
nào trong mọi hiện tượng trong vũ trụ.
Platôn
(Platon) (429 – 349 trước công nguyên), một triết gia có tên tuổi
lớn, trong sách Timê (Timée) của mình, bác bỏ tính chất
vật chất, bác bỏ thuyết nguyên tử, trình bày thuyết
các ý của mình: một thượng đế đã xây dựng trật tự
của thế giới bằng nguyên tố nước,
không khí, đất, lửa đã tạo ra 4 loại sinh vật
ứng với 4 nguyên tố đó là: loại thứ nhất
gồm các thần tạo nên tia lửa, loại thứ hai
gồm các động vật có cánh sống trong không khí, loại
thứ ba gồm các động vật sống trong nước, loại
thứ tư gồm các động vật sống trên cạn.
Arixtôt
(Aristotle) (384 – 322 trước công nguyên), học trò của
Platôn, không coi nặng như thầy vấn đề nghiền ngẫm các ý, mà
chú ý nhiều đến việc nghiên cứu thiên nhiên,
đến các con vật và các cây cỏ. Ông bác bỏ
thuyết nguyên tử, thừa nhận vật chất có thể
chia vô hạn, thừa nhận có 4 nguyên tố nước,
không khí, đất, lửa, tuy nhiên quan niệm nhau từng
cặp: khô - ẩm, nóng – lạnh, 4 tính chất nguyên thủy
ấy kết hợp từng cặp một thành các nguyên tố nước,
không khí, đất, và lửa theo sơ đồ này.
nóng + khô = lửa
nóng + ẩm = không khí
lạnh + khô = đất
lạnh + ẩm = nước
Hệ thống nguyên tố - tính chất nguyên thủy của Arixtôt
được trình bày trong hình. Sự khác nhau giữa các
chất là do tỉ lệ phối hợp các tính chất
nguyên thủy.
Khi đun nóng nước thiên nhiên, nước được biến thành không khí
và để lại trong đĩa một bã là đất.
Hiện tượng này được giải thích như sau: nước đã trả
ẩm cho lửa, thu nóng của lửa tạo thành không khí,
đồng thời nước trả lạnh cho lửa, thu khô của lửa,
tạo thành đất!
Từ đây, Arixtôt rút ra kết luận là: “Hoàn toàn có khả
năng biến đổi chất này thành chất khác!”. Kết
luận này đã thống trị tai hại trong hóa học một
thời gian rất dài, gần 2000 năm với trào lưu giả kim
thuật.
Dân tộc La Mã có óc thực tế hơn là óc suy luận, cho
nên họ chỉ tiếp thu các tư tưởng triết học
của dân tộc Hi Lạp, không đóng góp được gì
thêm giúp phát triển lý thuyết vừa trình bày.
Vài
nét về Nhà trường Alêcxanđri
(Alexandrie)
Trong khoảng thời gian chuyển tiếp từ thời
kì cổ đại sang thời kì trung cổ, từ thế
kỉ thứ 2 đến thế kỉ thứ 6 sau công
nguyên. Sự hoạt động mạnh mẽ của Nhà trường Alêcxanđri,
có ảnh hưởng khá
quan trọng đến sự tiến hóa của các ngành
khoa học, trong đó có hóa học.
Năm 323 trước công nguyên, Hoàng đế Hi Lạp, Alêcxanđri
vĩ
đại sau khi chinh phục được Ba Tư, Tiểu Á, và
nhiều nước Á – Phi, tiến quân chiếm Ai Cập, cho
xây dựng ở ngay cửa sông Nin (Nil) thành phố mới Alêcxanđri
làm thủ đô cho nước Ai Cập thuộc Hi Lạp.
Thành phố mới này trở thành một trung tâm
thương mại và thủ công nghiệp lớn nhất thời
bấy giờ, do chiếm vị trí đầu mối cho
nhiều đường giao thông và biển đi khắp mọi nơi. Dòng vua
Ptôlêmê (Ptolémée) trị vì Ai Cập từ thế kỉ thứ 3 trước công
nguyên với ý đồ chiến lược tán
dương, củng cố và khuếch trương ảnh hưởng
chính quyền của mình, tìm cách tập trung ở Alêcxanđri tất cả
các nhà thông thái của Hi Lạp và cho xây dựng một Viện
hàn lâm khoa học, đó là thư viện công cộng
đầu tiên trong lịch sử loài người (một thư viện khổng
lồ chứa tới 700.000 sách viết bằng tay). Và một Trường
Đại học Alêcxanđri cũng trở thành một trung tâm
khoa học lớn nhất thời bấy giờ, thu hút mạnh
mẽ nhiều thanh niên các nơi đến học tập.
Những nhà bác học được mời đến chỉ mới làm được công
tác bồi dưỡng, nghiên cứu và giảng dạy nhưng
chưa đóng góp được nhiều cho sự tiến
bộ của khoa học vì Viện hàn lâm khoa học Alêcxanđri
là một cơ quan cung đình lấy những thuyết duy tâm làm
tư tưởng chủ đạo. Dầu sao, từ Nhà Trường Alêcxanđri
này đã xuất hiện một số danh nhân khoa học: Ơclit
(Euclide) về tóan, lý; Acsimet (Archimède) về kỹ thuật,
Hêrôphin (Hérophile) về y học,… do đã chú ý gắn liền
nghiên cứu khoa học với các ứng dụng phục vụ
nông nghiệp, hang hải, quân sự, thương mại,…
Đối với hóa học, nó vẫn được coi như một bộ
phận của “nghệ thuật bí mật thiêng liêng” của
các giáo sĩ trong các đền thờ. Họ hoạt động
dựa vào nhiều tà thuật mê tín, tuy vậy cũng
đã được tập hợp một số kiến thức
về hóa kỹ thuật thủ công.
Nhà trường Alêcxanđri tồn tại đến năm 641 và
sau đó ngừng hoạt động hẳn do thành phố Alêcxanđri bị người Ả
Rập tàn phá trong một cuộc bao vây 14 tháng liền.
Nhờ sự tỏa sang của Nhà trường Alêcxanđri mà có
nhiều
thành tựu về triết học, văn học, khoa học,
nghệ thuật của thế giới cổ đại được truyền
lại cho đến ngày nay.
CHƯƠNG III: THỜI KÌ GIẢ KIM THUẬT
Giả
kim thuật là danh từ dịch từ chữ “alchimi”, mà
người Ả Rập sau khi xâm chiếm Ai Cập giữa
thế kỉ thứ 7, đặt ra bằng cách lắp tiền
tố “al” của Ả Rập vào từ chimi để chỉ
thứ “tiền hóa học” ngự trị trong thời kì
trung cổ ở châu Âu (từ thế kỉ thứ 2 đến
thế kỉ thứ 16).
Mục
đích chủ yếu của giả kim thuật là tìm hòn
đá thần bí biến đổi các kim loại thường
thành vàng. Do vậy có thể tạm định nghĩa hóa
học ở thời kì này là “nghệ thuật biến
đổi các kim loại thành vàng”, nhờ hòn đá “thần bí”. Sau đó
người ta còn thêm yêu cầu tìm ra thuốc thần
bí truyền cho con người sức khỏe, sự trẻ
trung, tính bất tử.
Tại sao lại có mục đích tha thiết viển vông,
tìm cách biến các kim loại thành vàng? Nguyên nhân là do thời
trung cổ, ở châu Âu có chế độ xã hội phong
kiến phân tán, có sự buôn bán phát triển khá rộng rãi
giữa châu Âu và phương Đông, nhưng vì giao thông khó khăn,
đường xa đầy nguy hiểm nên cần vàng là
vật liệu quý và nhỏ dễ mang theo để dùng làm
vật trao đổi tương đương. Yêu cầu có
nhiều vàng định hướng nghiên cứu cho các nhà giả kim thuật
tìm “ngọc thần bí” có khả năng biến đổi
một kim loại bất kì thành vàng. Cơ sở lý thuyết của
giả kim thuật là quan niệm của Aritxtôt chuyển hóa được chất
này thành một chất khác, kim loại này thành kim loại
khác.
Về nguồn gốc giả kim thuật, còn có thể kể
thêm lòng tham lam của con người muốn có nhiều vàng để tạo
cho mình một cuộc sống đế vương về vật
chất, tham vọng bản thân sống luôn luôn khỏe mạnh,
luôn luôn trẻ trung, sống đời cùng người thân
mà không bao giờ có cảnh biệt ly.
Giả kim thuật có một số đặc điểm như sau:
1. Hoạt động bí mật khép kín, có khuynh
hướng tà thuật, không biết gì đến phương
pháp khoa học.
2. Sử dụng những kí hiệu thần bí và một
ngôn ngữ rối rắm cố ý. Truyền các kinh nghiệm
cho nhau theo một đường lối tin cậy mù quáng không cần cơ sở gì, có
sự kiểm tra gì.
3. Độc quyền nghiên cứu, nắm trong tay đám
giáo sĩ tôn giáo là những người nắm văn học, khoa học, trong xã hội
thời bấy giờ.
Nhìn tổng quát, giả kim thuật có nguồn gốc Hi Lạp
– Ai Cập. Nó được Ả Rập tiếp thu khi
đến xâm chiếm Ai Cập giữa thế kỉ thứ
7 rồi đem truyền bá dần sang Tây Âu khi xâm chiếm
Tây Ban Nha đầu thế kỉ thứ 8 (năm 711).
Giả kim thuật đã phát triển theo 3 giai đoạn
là:
- Giả kim thuật ỏ Ai Cập thuộc Hi Lạp,
từ thế kỉ thứ 4 đến giữa thế kỉ
thứ 7.
- Giả kim thuật trong giới Ả Rập, từ giữa
thế kỉ thứ 7 đến đầu thế kỉ
thứ 13.
- Giả kim thuật trong thiên chúa giáo Tây Âu, từ đầu
thế kỉ thứ 13 đến đầu thế kỉ
thứ 16.
1.
Giả kim thuật ở Ai Cập thuộc Hi Lạp (từ thế
kỉ thứ 4 đến giữa thế kỉ thứ 7)
Các
nhà giả kim thuật có tên tuổi nhất trong giai đoạn
này là:
Zôsime:
đã trình bài cách “cố định thủy ngân” (hóa rắn
thủy ngân) cách chế nước thánh cho nghệ thuật điều chế
vàng…
Hecmet
ba lần vĩ đại (Hermès Trismégiste) sống vào khoảng
đầu công nguyên, nhiều tài liệu viết “đóng
kín”mang tên ông và số lượng quá nhiều, mấy thế kỉ sau công
nguyên còn xuất hiện. Người ta nghi ngờ, tìm hiểu kĩ, nhận ra
trong đó còn thứ cóp nhặt giả tạo.
Ai
Cập thuộc Hi Lạp, không có kiến thức gì khác mới
đáng chú ý.
2.
Giả kim thuật trong giới Ả Rập
(từ
giữa thế kỉ thứ 7 đến đầu thế
kỉ thứ 13)
Các
quốc vương Ả Rập có đặc điểm vừa nắm
chính quyền lẫn thần quyền. Sau khi xâm chiếm Ai
Cập, họ theo gương chính quyền trước ở
Ai Cập tích cực bảo trợ khoa học và nghệ
thuật, thu hút tập trung các nhà bác học, khi đến Tây Ban Nha,
người Ả Rập xây dựng vương quốc
Coocđu (Cordoue) độc lập làm thành một trung tâm
văn minh Ixlam, thành lập Trường Đại Học Coocđu có thư
viện
lớn nhất thời bấy giờ chứa 250.000 sách, giảng
dạy các môn triết học, toán, thiên văn, chiêm tinh, y học, giả
kim thuật,… tổ chức dịch nhiều tài liệu cổ
điển Hi Lạp sang tiếng Ả Rập. Người Ả
Rập chú trọng nhiều nghiên cứu y học, dược học,
tìm, chế biến nhiều thuốc chữa bệnh.
Các nhà giả kim thuật có tên tuổi nhất
trong giai đoạn này là Ghebe (Geber), khoảng 750-840, sống
vào thời kì thịnh vượng nhất của đế quốc Ả Rập. Ông
được coi là ông tổ của giả kim thuật Ả
Rập. Các công trình chính của ông nói về tóan học, y học,
giả kim thuật. Geber thêm vào Thuyết nguyên tố của
Aritxtôt 2 nguyên tố mới là thủy ngân và lưu huỳnh
để giải thích sự cấu tạo nên kim loại.
Theo ông, các kim loại được cấu tạo từ sự kết hợp
của thủy ngân với lưu huỳnh theo những tỉ lệ khác nhau; vàng là
kim loại hoàn thiện nhất, có tỉ lệ kết hợp
giữa thủy ngân và lưu huỳnh là tốt nhất. Đây là một đóng góp
thêm của giả kim thuật về mặt lý thuyết
cho
hóa học thời bấy giờ. Trong các công trình của
ông lần đầu tiên xuất hiện các danh từ
alcati, vitriol, alcohol, alembic, sự mô tả rõ ràng các lò, các thiết
bị dùng trong các phòng nghiên cứu, cách chế biến chưng cất, kết
tinh, thăng hoa… Cách điều chế và tinh chế các kim
loại, cách điều chế axit từ dấm…
Số
tài liệu được coi là của ông viết để lại
quá nhiều, còn tiếp tục được xuất bản
trong nhiều thế kỉ sau nhưng thực ra có nhiều
tác giả không phải là của ông.
Razet
(Rhasès), 860-940. Ông có 2 quyển sách nổi tiếng nhất:
“Sách về những bí mật”, “Sách về bí mật của
những bí mật”. Ông thêm nguyên tố muối làm thành phần
thứ 3 trong cấu tạo kim loại. Ông nói đến
nhiều kĩ thuật chế biến, nhiều dụng cụ
thí nghiệm (lò nung, bình cổ cong, bình kết tinh,…), nhiều
hóa chất. Ông đã mô tả phương pháp dùng vôi sống
để loại nước ra khỏi cồn, thứ cồn lần
đầu tiên được chế bằng chưng cất rượu nho.
Avixen
(Avicenne), 980-1036 là nhà khoa học Ả Rập lớn cuối
cùng, nghiên cứu triết học, toán, thiên văn, y
học,
giả kim thuật, nhưng hoạt động nhiều trong lĩnh vực y học.
Công trình chính là sách “Quy tắc của khoa y học” – có đề
cập đến nhiều chất vô cơ, hữu cơ, và chiếm vị
trí độc tôn về y học của Châu Âu suốt thời
kì trung cổ
3.
Giả kim thuật ở Tây Âu Thiên Chúa Giáo (từ
đầu thế kỉ thứ 13 đến đầu thế
kỉ 16)
Văn hóa Ả Rập, từ Tây Ban Nha và Italia, xâm nhập
ngày càng nhiều và mật thiết vào văn hóa thiên
chúa giáo Châu Âu. Bắt đầu từ thế kỉ 12, giả
kim thuật xâm nhập vào các nước Pháp, Đức, Anh qua các bản dịch
tài liệu giả kim thuật từ tiếng Ả Rập
sang tiếng La tinh, và được phổ biến
rỗng rãi đến mức chẳng bao lâu giả kim thuật
lan truyền khắp Châu Âu, như một bệnh truyền nhiễm!
Nên nhớ rằng, thời bấy giờ Châu Âu có một
thuận lợi lớn về tổ chức xã hội: nhiều
thành phố ít lệ thuộc vào các chúa phong kiến, đẫ được tự
trị nên tự do hơn. Đã xuất hiện những hội
buôn lớn, ở các thành phố lớn đã thành lập các trường
đại học dân sự khác với các trường tu
viện, các trường đại học kiểu mới này dạy
nhiều nghề khác nhau và có quyền tự trị như các công
xưởng thủ công… Do quyền lợi về chính
trị và kinh tế ở thành phố nhiều hơn, hoạt
động về tinh thần trở nên sôi nổi hơn, và nhu
cầu
học tập của thanh niên thuộc giới thợ thủ
công và giới thương nhân cũng tăng lên.
Có thể kể Đại học Bôlônha ở Italia
(1119), Đại học Pari ở Pháp (1200),…
Thời thịnh vượng nhất
của giả kim thuật ở Châu Âu là vào các thế kỉ
thứ 13 và 14. Lúc này nhà thờ thiên chúa giáo chiếm độc
quyền văn hóa và nghiên cứu khoa học,
trực tiếp là các tăng lữ, trong các phòng kín đọc
sách, ghi chép, nghiên cứu, viết về các khoa học tự nhiên, đặc biệt
chú ý đến môn giả kim thuật. Từ thế kỉ
15, tuy số môn đồ giả kim thuật Châu Âu vẫn tăng
nhưng họ chỉ nhằm điều chế vàng nên giả
kim thuật suy tàn dần không còn hi vọng gì tồn tại…
Những nhà giả kim thuật có tên tuổi nhất trong
giai đoạn này là:
Anbe
Lơgrăng (Albert Legrand), 1193-1280, là nhà giả kim thuật người
Đức có ảnh hưởng lớn nhất. Sách của ông trình bày các
thuyết, phần lớn lấy của Aritxtôt, phần thì
lấy của người Ả Rập, ông là người đầu tiên
đưa ra khái niệm quan trọng ái lực hóa học, nêu ra những
thuận lợi của các phương pháp tách (chưng cất, chưng cách
thủy,
thăng hoa,…), mô tả kĩ các thiết bị… Ông đã
dùng lửa để kiểm tra các mẫu vàng, bạc của
các nhà giả kim thuật điều chế ra, và kết luận
vàng, bạc đó đều là giả.
Rôgiơ
Bêcơn (Roger Bacon), 1220-1292, là một nhà giả
kim thuật người Anh, được mệnh danh là “tiến sĩ
kì diệu” (doctor mirabilis) do có những khả năng xuất
sắc. Bêcơn có một trình độ vượt trình
độ thời bấy giờ” ông cho tóan học có vị trí cơ bản trong
các khoa học, một khoa học nào muốn tiến bộ
phải biết kết hợp thí nghiệm với các
phương pháp tóan học. Theo ông có hai phương pháp nghiên cứu là
phương pháp lập luận trừu tượng và
phương pháp thí nghiệm cụ thể; phương pháp thí nghiệm quan
trọng vô cùng, vì nó cần thiết để kiểm tra
những lập luận trừu tượng
không đủ tin cậy.
Bêcơn học ở Ôcpho (Oxford) nước Anh, tại Pari nước Pháp
đỗ tiến sĩ, về ở tu viện
Coocđơliê (Cordeliers) tại Pari ông bắt đầu
nghiên cứu khoa học và làm giả kim thuật. Ông có tư
tưởng tiến bộ chống lại triết học
kinh viện nên bị các giáo phái nghi ngờ, tìm cách trù dập,
đuổi đi, bắt giam, hành hạ, khủng bố
nhiều năm, đến tàn tật khi ông được trả
tự do. Sách “Tấm gương giả kim thuật” của ông trở
thành sách giáo khoa thực hành, cho nhiều thế hệ nhà giả
kim thuật sau này.
Các đại diện giả kim thuật của Pháp là:
Vanhxăng đơ Bôve (Vincent de Beauvais) …-1260, Xanh Tôma
Đacanh (Saint Thomas d’ Aqin), 1225-1274, và của Tây Ban Nha là
Acnôn đơ Vinlơnơvơ (Arnauld de Villeneuve),
1240-1319, Raymông Luyn (Raymond Lulle), 1235-1315, cả hai đều
vừa là bác sĩ, vừa là nhà giả kim thuật.
Chúng
ta hãy đánh giá công minh xem, giả kim thuật đã có
đóng góp gì có ích cho hóa học. Nhìn chung đó là một trào lưu
đã kìm hãm sự phát triển của hóa học trong
một thời gian quá dài! Nó chạy theo một mục đích
mơ hồ, gây lãng phí quá lớn về lao động
trí óc và chân tay, về khối lượng của cải
vật chất so với kết quả thu được cho
hóa học, tuy vậy có cũng có sự đóng góp thực
tế đáng kể như sau:
- Tập
hợp được nhiều hiểu biết thực tế
trong phòng thí nghiệm, hoàn thiện nhiều kĩ thuật
trong phòng thí nghiệm (nung, chưng cất, hòa tan, lọc, bay hơi, kết tinh,
thăng hoa,…).
- Phát hiện được nhiều chất mới: kim loại (Bi,
Zn), muối (Hg, NH4+,…), các axit vô cơ H2SO4,
HCl, HNO3, nước cường thủy (đây là một thành tích quan trọng). Đã phân biệt được chất
kiềm bay hơi NH4OH với chất kiềm không bay
hơi Na2CO3, phân biệt được 2 cacbonat Na2CO3 và K2CO3.
Ở Châu Âu, thế kỉ 15, bắt đầu xuất hiện
sự chuyên môn hóa những ngành sản xuất nhỏ axit,
kiềm, muối, dược phẩm và một số chất hữu cơ phục vụ
các ngành thủ công, nghiên cứu khoa học bằng thủ
công trong những công xưởng, phòng thí nghiệm.
Đóng góp nhiều là các nhà giả kim thuật Ả Rập.
Phần đóng góp thiết thực của giả kim thuật
sẽ giúp ích vào sự phát triển của hóa học ở
thời kì hóa y học và hóa kỹ thuật.